Lịch sử hoạt động Courageous (lớp tàu chiến-tuần dương)

Các hoạt động đầu tiên

Trong khi chạy thử máy vào tháng 11 năm 1916 ngoài khơi River Tyne, Courageous chịu đựng những hư hại về cấu trúc khi nó di chuyển hết tốc độ vào lúc biển động. Sàn trước bị cong oằn nặng ở ba chỗ giữa mũi tàu và tháp pháo phía trước.[25] Ngoài ra, các tấm thép ốp lườn tàu cũng thấy được sự uốn cong giữa sàn trước và sàn trên. Nước đã tràn vào các phòng ngư lôi ngầm, và đinh tán bị cắt vạt ở mép đứng các đế sắt cố định vỏ giáp sàn tàu.[26] Nguyên nhân chính xác không thể xác định, nhưng Courageous được nhận 130 tấn Anh (132 t) thép gia cố; Glorious chỉ được gia cố thêm vào năm 1918.[27] Courageous còn được tạm thời trang bị như một tàu rải mìn vào tháng 4 năm 1917, nhưng chưa bao giờ thực sự rải mìn. Đến giữa năm 1917 cả hai được bổ sung sáu cặp ống phóng ngư lôi: một cặp mỗi bên mạn của cột ăn-ten chính ở mức sàn trên và hai cặp mỗi bên mạn tháp pháo sau ở mức sàn sau.[28][29] Courageous và Glorious phục vụ cùng nhau trong suốt chiến tranh. Ban đầu chúng được điều về Hải đội Tuần dương nhẹ 3 nhưng sau đó được chuyển sang Hải đội Tuần dương 1.[30]

Furious nguyên thủy vào lúc hoàn tất

Ngay khi còn đang được chế tạo, Furious được cải biến với một hầm chứa máy bay (hangar) lớn chứa mười máy bay dưới sàn trước thay cho tháp pháo phía trước, cùng một sàn cất cánh dài 160 ft (49 m) được chế tạo trên nóc. Máy bay được cho cất cánh từ sàn này, và được cho hạ cánh nhưng ít thành công hơn. Mặc dù tháp pháo đuôi được trang bị và khẩu pháo được vận hành thử, chỉ không lâu sau đó Furious quay trở lại xưởng tàu để được cải biến thêm. Vào tháng 11 năm 1917, tháp pháo đuôi được tháo dỡ thay bằng một sàn hạ cánh dài 300 ft (91 m) bên trên một hầm chứa máy bay khác.[31] Ống khói và cấu trúc thượng tầng của nó được giữ nguyên, với những lối sàn hẹp chung quanh chúng nối liền hai sàn cất hạ cánh.[29] Hiện tượng nhiễu loạn không khí từ ống khói và cấu trúc thượng tầng đáng kể đến mức chỉ có ba lượt tìm cách hạ cánh thành công trước khi các nỗ lực khác bị cấm.[32] Các khẩu pháo 18 inch của nó được sử dụng lại trên những chiếc monitor lớp Lord Clive General WolfeLord Clive trong chiến tranh.[33]

Cả ba con tàu đều đang trong thành phần Hải đội Tuần dương 1 với Courageous là soái hạm khi Bộ Hải quân nhận được tin tức về việc tàu chiến Đức di chuyển vào ngày 16 tháng 10 năm 1917, có thể là dấu hiệu của một chiến dịch bắn phá. Đô đốc David Beatty, Tư lệnh Hạm đội Grand Anh Quốc, ra lệnh cho hầu hết các tàu tuần dương hạng nhẹtàu khu trục dưới quyền ra khơi truy tìm tàu đối phương. Furious được cho tách khỏi Hải đội Tuần dương 1 để càn quét dọc theo vĩ tuyến 56° Bắc cho đến kinh độ 4° Đông và quay trở lại trước khi trời tối. Hai chiếc kia thoạt đầu không được tung ra khơi, nhưng sau đó được gửi đi tăng cường cho Hải đội Tuần dương nhẹ 2 tuần tra khu vực giữa Bắc Hải và cuối ngày hôm đó.[34] Hai tàu tuần dương hạng nhẹ Đức thuộc lớp Brummer đã tìm cách lọt qua khoảng trống giữa các tàu tuần tra Anh và tiêu diệt một đoàn tàu vận tải đang hướng đến Scandinavia vào sáng ngày 17 tháng 10, nhưng đã không nhận được tin tức gì về cuộc đụng độ cho đến xế trưa hôm đó. Hải đội Tuần dương 1 được lệnh đánh chặn các con tàu Đức, nhưng chúng đã ở quá xa không thể nào bắt kịp.[35]

Trận Heligoland Bight thứ hai

Trong năm 1917, Bộ Hải quân Anh ngày càng quan tâm đến các nỗ lực rà quét các bãi thủy lôi của Đức tại Bắc Hải, vốn do phía Anh rải nhằm hạn chế các hoạt động của Hạm đội Biển khơi Đức cũng như các tàu ngầm U-boat. Một đợt bắn phá sơ khởi nhắm vào lực lượng quét mìn Đức vào ngày 31 tháng 10 do các lực lượng hạng nhẹ tiến hành đã tiêu diệt được mười tàu nhỏ, và Bộ Hải quân quyết định thực hiện một chiến dịch lớn hơn để tiêu diệt các tàu quét mìn cùng các tàu tuần dương hạng nhẹ hộ tống chúng. Dựa trên các báo cáo tình báo, họ quyết định huy động vào ngày 17 tháng 11 năm 1917 hai hải đội tuần dương nhẹ, Hải đội Tuần dương 1 được bảo vệ bởi Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 có tăng cường, và xa hơn phía sau là các thiết giáp hạm của Hải đội Chiến trận 1.[36]

Các con tàu Đức, bao gồm bốn tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc Lực lượng Tuần tiễu II, tám tàu khu trục, ba đội tàu quét mìn, tám tàu sperrbrecher [Note 2] và hai tàu đánh cá để đánh dấu luồng được quét, bị phát hiện lúc 07 giờ 30 phút,[Note 3] soi bóng trong ánh sáng bình minh; bảy phút sau, Courageous cùng với tàu tuần dương hạng nhẹ Cardiff khai hỏa với các khẩu pháo phía trước của chúng. Phía Đức phản ứng bằng cách thả một màn khói, phía Anh tiếp tục truy đuổi, nhưng mất dấu hầu hết các con tàu nhỏ và đã tập trung hỏa lực vào các tàu tuần dương hạng nhẹ mỗi khi có cơ hội. Một quả đạn pháo 15 inch bắn trúng giá chắn pháo của chiếc Pillau nhưng không thể làm giảm tốc độ của nó. Lúc 08 giờ 33 phút, khẩu pháo bên trái trên tháp pháo phía trước của Glorious bị hỏng khi một quả đạn kích nổ bên trong nòng pháo. Đến 09 giờ 30 phút, Hải đội Tuần dương 1 từ bỏ cuộc truy đuổi do không muốn đi vào một bãi mìn được đánh dấu trên bản đồ của họ; quay mũi về phía Nam và không đóng vai trò nào khác trong trận chiến. Các con tàu Đức đã ở cách rất xa khó có thể bị các tàu Anh bắt kịp trước khi phải đổi hướng tránh bãi mìn.[37]

Cả hai chiếc đều bị những hư hại nhẹ bởi chớp lửa đầu nòng của chính chúng, và Glorious cần có năm ngày sửa chữa.[38] Courageous đã bắn tổng cộng 92 phát đạn pháo 15 inch còn Glorious bắn 57 phát, chỉ ghi được một phát trúng Pillau; chúng còn bắn 180 và 213 phát đạn pháo 4 inch, tương ứng.[39] Các thiết bị rải mìn của Courageous được tháo dỡ sau trận chiến, và cả hai nhận được những bệ cất cánh dành cho thủy phi cơ bên trên nóc các tháp pháo vào năm 1918; một chiếc Sopwith Camel được mang theo trên tháp pháo đuôi cùng một chiếc Sopwith 1½ Strutter trên tháp pháo phía mũi.[40]

Furious được cho hoạt động trở lại vào ngày 15 tháng 3 năm 1918, và những máy bay được phối thuộc của nó được sử dụng trong các cuộc tuần tra chống khí cầu Zeppelin tại Bắc Hải từ tháng 5. Vào tháng 7 năm 1918, nó tung ra bảy chiếc Sopwith Camel để thực hiện cuộc Không kích Tondern tấn công căn cứ Zeppelin tại Tondern với mức độ thành công vừa phải.[41] Cả ba chiếc đã hiện diện vào lúc Hạm đội Đức đầu hàng vào ngày 21 tháng 11 năm 1918.[29][42]

Sau chiến tranh

Courageous được đưa về lực lượng dự bị tại Rosyth vào ngày 1 tháng 2 năm 1919 trước khi được bố trí về Trường Tác xạ thuộc Căn cứ Devonport vào năm tiếp theo như một tàu thực hành tháp pháo. Nó trở thành soái hạm của Chuẩn đô đốc Tư lệnh Dự bị tại Devonport vào tháng 3 năm 1920. Glorious cũng được đưa về lực lượng dự bị tại Rosyth vào ngày 1 tháng 2 và phục vụ như một tàu thực hành tháp pháo, rồi thay thế cho con tàu chị em với nó trong vai trò soái hạm từ năm 1921 đến năm 1922. Furious được đưa về lực lượng dự bị vào ngày 21 tháng 11 năm 1919 trước khi bắt đầu công việc tái cấu trúc thành tàu sân bay vào năm 1921.[24]

Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 yêu cầu các nước tham gia phải cắt giảm đáng kể kế hoạch đóng tàu chiến mới cùng tháo dỡ nhiều tàu hiện hữu để tuân thủ giới hạn về tải trọng. Tuy nhiên, nó cũng cho phép cho đến 66.000 tấn Anh (67.000 t) tàu hiện có được cải biến thành tàu sân bay, và Hải quân Hoàng gia đã chọn cải biến những chiếc thuộc lớp Courageous do tốc độ nhanh của chúng. Mỗi chiếc được tái cấu trúc trong những năm 1920 với một sàn đáp suốt chiều dài con tàu. Các tháp pháo 15 inch của chúng được lưu cất, và sau này trong Thế Chiến II được sử dụng cho chiếc Vanguard, thiết giáp hạm cuối cùng của Hải quân Hoàng gia.[43]

Là chiếc tàu sân bay lớn (còn gọi là tàu sân bay "hạm đội") đầu tiên được hoàn tất của Hải quân Hoàng gia, Furious được sử dụng rộng rãi trong việc đánh giá kỹ thuật vận hành và hạ cánh máy bay, bao gồm việc hạ cánh ban đêm lần đầu tiên vào năm 1926.[44] Courageous trở thành tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoàng gia bị mất trong Chiến tranh Thế giới thứ hai khi nó trúng ngư lôi từ một tàu ngầm U-boat Đức vào tháng 9 năm 1939.[45] Glorious truy đuổi không thành công thiết giáp hạm bỏ túi Đức Admiral Graf Spee tại Ấn Độ Dương vào năm 1939; rồi tham gia Chiến dịch Na Uy năm 1940 nhưng bị các thiết giáp hạm Đức ScharnhorstGneisenau đánh chìm vào tháng 6 khi được phép quay trở về nhà một cách không khôn ngoan với sự hộ tống tối thiểu.[46] Furious trải qua những tháng đầu tiên của chiến tranh săn đuổi tàu cướp tàu buôn và hộ tống đoàn tàu vận tải trước khi bắt đầu hỗ trợ lực lượng Anh tại Na Uy. Nó trải qua phần lớn năm 1940 tại vùng biển Na Uy tấn công các cơ sở và tàu bè Đức, rồi phần lớn năm 1941 vận chuyển máy bay đến Tây Phi, GibraltarMalta trước khi được tái trang bị tại Hoa Kỳ. Nó tiếp tục vận chuyển máy bay đến Malta trong thành phần các đoàn tàu vận tải Malta trong năm 1942 rồi hỗ trợ trên không cho lực lượng Anh trong Chiến dịch Torch. Nó trải qua phần lớn năm 1943 huấn luyện cùng với Hạm đội Nhà, nhưng cũng thực hiện nhiều cuộc không kích nhắm vào thiết giáp hạm Đức Tirpitz và các mục tiêu khác tại Na Uy vào năm 1944. Tuy nhiên Furious đã trở nên cũ kỹ và lạc hậu; và với sự có mặt của nhiều tàu sân bay mới, nó được đưa về lực lượng dự bị vào tháng 9 năm 1944 trước khi bị loại bỏ vào năm tiếp theo, và được bán để tháo dỡ vào năm 1948.[47]

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Courageous (lớp tàu chiến-tuần dương) http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_15-42_mk1.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_18-40_mk1.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_3-45_mk1.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_4-45_mk9.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_55-50_mk1.htm http://dreadnoughtproject.org/tfs/index.php/Courag... http://www.gwpda.org/naval/opzz.htm //www.worldcat.org/oclc/10154565 //www.worldcat.org/oclc/12119866 http://www.battleships-cruisers.co.uk/courageous_c...